Tác động của đại dịch Covid-19 đến thị trường tài chính Việt Nam và một số giải pháp

20 Tháng Bảy 2021

(VLU, 06/7/2021) - Đại dịch Covid - 19 đã và đang gây ra cuộc suy thoái lan rộng và kéo dài trên phạm vi toàn cầu. Ở Việt Nam, đại dịch gây xáo trộn đời sống kinh tế - xã hội, tác động tiêu cực đến sự phát triển của thị trường tài chính (TTTC). Trong phạm vi bài viết, trên cơ sở tổng quan bức tranh kinh tế và TTTC Việt Nam quý I/2020, đánh giá những tác động tiêu cực từ dịch Covid - 19, tác giả đề xuất một số giải pháp cấp bách nhằm ổn định TTTC Việt Nam trong bối cảnh dịch bênh còn diễn biến phức tạp, khó lường.

Bức tranh kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam quý I năm 2020

Tăng trưởng GDP quý I/2020 của Việt Nam ước đạt 3,82% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng thấp nhất từ 2011 đến nay, nhưng khá so với khu vực và nhiều nền kinh tế khác. (**)

Trên thị trường tài chính, tính đến thời điểm 20/3/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 1,55% (cùng kỳ năm 2019 tăng 2,54%), huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0,51% (cùng kỳ năm 2019 tăng 1,72%), tín dụng của nền kinh tế tăng 0,68% (cùng kỳ năm 2019 tăng 1,9%), cho thấy các doanh nghiệp khó khăn, phải thu hẹp hoạt động (**).

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm quý I/2020 tăng cao, ước tính tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 21%, lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 8% (**), do các công ty Bảo hiểm nhân thọ cung cấp nhiều gói sản phẩm linh hoạt, tăng các gói hỗ trợ bảo hiểm phù hợp.

Tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán trong quý I/2020 chỉ đạt 29,5 nghìn tỷ đồng, giảm 65% so với cùng kỳ năm trước. Trên thị trường cổ phiếu, tính đến ngày 23/3/2020, chỉ số VNIndex đạt 657,43 điểm, giảm 25,5% so với cuối tháng trước và giảm 31,6% so với cuối năm 2019. Mức vốn hóa thị trường đạt 3.302 nghìn tỷ đồng, giảm 24,7% so với cuối năm 2019; giá trị giao dịch bình quân từ đầu năm đến nay đạt 4.676 tỷ đồng/phiên, tăng 0,04% so với bình quân năm 2019. Trên thị trường trái phiếu, hiện có 483 mã trái phiếu niêm yết đạt 1.163 nghìn tỷ đồng, giảm 0,8% so với cuối năm 2019. Trên thị trường chứng khoán phái sinh, tính chung quý I/2020, khối lượng giao dịch bình quân đạt 122.436 hợp đồng/phiên, tăng 38% so với bình quân năm trước (**).

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I/2020 theo giá hiện hành ước tính đạt 367,9 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước và bằng 31% GDP. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 8,6 tỷ USD, giảm 20,9% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I/2020 ước tính đạt 3,9 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước (**).

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2020 ước tính đạt 311,3 nghìn tỷ đồng, bằng 20,6% dự toán năm. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2020 ước tính đạt 20 tỷ USD, giảm 4,1% so với tháng trước. Giá vàng trong nước biến động trái chiều với giá vàng thế giới do các nhà đầu tư trong nước có xu hướng nắm giữ vàng trong thời điểm thị trường chứng khoán, bất động sản không ổn định. (**). Những số liệu trên phần nào đã phản ánh “bức tranh u ám” của nền kinh tế nói chung, của TTTC Việt Nam trong quý I năm 2020 trong bối cảnh dịch Covid - 19.

2330 coronavirus economy wp
Đời sống kinh tế - xã hội, thị trường tài chính tại Việt Nam bị tác động bới đại dịch Covid - 19
(nguồn: Internet)

Tác động tiêu cực của dịch Covid - 19 đến thị trường tài chính Việt Nam

Thứ nhất, sự bùng phát của dịch bệnh làm cho thị trường hàng hoá, tiêu thụ thu hẹp, do sản xuất của doanh nghiệp, thu nhập người dân giảm mạnh. Đây là tác động rõ nét và cơ bản nhất đối với kinh tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu chịu tác động lớn nhất. Khó khăn này càng gia tăng, khi tổng giá trị xuất khẩu của nước ta chiếm thường xuyên tới 60% -70% GDP. Diễn biến tác động tiêu cực đến hoạt động ngân hàng. Tín dụng tăng trưởng chậm, một mặt do các ngân hàng thương mại thận trọng cho vay vì thị trường biến động mạnh, mặt khác chính doanh nghiệp hạn chế mở rộng sản xuất kinh doanh do khó khăn về thị trường, tiêu thụ và ký kết hợp đồng. Chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng bởi quá trình luân chuyển vốn chậm của nền kinh tế, của doanh nghiệp, dẫn đến khả năng thanh toán bị hạn chế. Nhiều doanh nghiệp ứ đọng hàng hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản tín dụng có liên quan. Tín dụng bất động sản luân chuyển chậm, đặc biệt là các khoản nợ cho vay kinh doanh bất động sản.

Thứ hai, dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu tác động gián tiếp đến TTTC và hoạt động ngân hàng, trên các phương diện sau:

  • Dòng vốn đầu tư gián tiếp biến động mạnh. Thời gian qua, thị trường chứng khoán trong nước phải liên tục điều chỉnh, giảm điểm do việc bán ròng của các nhà đầu tư nước ngoài. Các tổ chức tài chính - chi nhánh hoặc công ty con đang hoạt động ở Việt Nam rút vốn về nước. Dịch bệnh cũng tạo tâm lý bảo toàn vốn, tâm lý nắm giữ tiền mặt hơn là cổ phiếu của các Nhà đầu tư. Những hoạt động này tạo hiệu ứng tâm lý tiêu cực khiến thị trường chứng khoán trong nước gặp nhiều khó khăn.
  • Các hoạt động đầu tư, liên kết góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược vào hệ thống ngân hàng trong nước giảm, ảnh hưởng đến chiến lược tăng trưởng vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại cổ phần, qua đó ảnh hưởng đến quá trình đổi mới công nghệ, phát triển dịch vụ, quản trị, quản lý ngân hàng hiện đại của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Tác động này mang tính tạm thời, ngắn hạn.
  • Những biến động của lãi suất, giá vàng, đồng Dolla Mỹ... trên các thị trường tiền tệ thế giới nhanh, liên tục và khó dự báo. Điều này tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ, gây tác động tiêu cực nhất định đến thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối.

Một số giải pháp ổn định thị trường tài chính hiện nay

Một là, Ngân hàng Nhà nước Trung ương thường xuyên nghiên cứu, dự báo, đánh giá tác động của dịch bệnh đối với nền kinh tế; bám sát diễn biến thị trường để cập nhật, điều chỉnh các kịch bản điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng. Cần chủ động điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, điều tiết nghiệp vụ thị trường mở với kỳ hạn, khối lượng, lãi suất hợp lý và chuẩn bị các phương án hỗ trợ khi cần thiết để đảm bảo thanh khoản thị trường thông suốt, cung ứng vốn kịp thời, giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.

Hai là, các tổ chức tín dụng phải chủ động cân đối, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ vay vốn, nâng cao khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng. Cần căn cứ tình hình thực tiễn để kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí đối với khách hàng khó khăn (trước hết là gói hỗ trợ tín dụng khoảng 250 nghìn tỷ đồng).

Ba là, tiếp tục triển khai thực hiện tốt các chính sách về gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch; miễn, giảm thuế, phí, lệ phí để tháo gỡ khó khăn cho các đối tượng bị ảnh hưởng; chi ngân sách nhà nước, trước hết là gói hỗ trợ khoảng 30 nghìn tỷ đồng để góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội. Các cơ quan liên quan hướng dẫn thực hiện tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch 9 và không tính lãi phạt chậm nộp theo thẩm quyền và quy định của pháp luật; xem xét thời điểm đóng phí công đoàn phù hợp, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tổ chức.

Bốn là, cơ quan chức năng phải tiếp tục hỗ trợ thị trường chứng khoán, củng cố niềm tin cho các bên tham gia thị trường. Theo đó, cần có hướng dẫn, quy định để cụ thể hoá gói hỗ trợ kép của Chính phủ bao gồm cả tài khóa và tín dụng trị giá 280 nghìn tỷ đồng, theo cơ chế tác động san sẻ rủi ro giữa các thành phần kinh tế. Ðiều đó sẽ tạo cơ sở cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian và nhà đầu tư tin vào nội lực của nền kinh tế, vào các giải pháp của Chính phủ cũng như sức bền của thị trường.

Năm là, tích cực, chủ động tháo gỡ các rào cản, đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đại dịch, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam bị ảnh hưởng lớn, khi 2 tháng đầu năm, vốn FDI thực hiện giảm 5% (đây là lần giảm đầu tiên trong giai đoạn 2016 - 2020); vốn FDI đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài giảm 23,6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận khía cạnh tích cực từ bối cảnh hiện tại, khi Việt Nam vẫn đang được coi là đất nước an toàn. Một số nhà đầu tư chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam, như mới đây, Samsung quyết định chuyển dây chuyền sản xuất “một số smartphone cao cấp” tới Việt Nam. Do vậy, cần coi đây là một cơ hội trong hoạt động thu hút đầu tư của Việt Nam để hướng tới mục tiêu dài hạn hơn.

-----------------------------

(*) Nghiên cứu đăng trên Tạp chí Công thương, số 7 tháng 04/2020

(**) Tổng cục Thống kê (2020), Thông cáo báo chí và Infographics về tình hình kinh tế - xã hội quý I/2020https://www.gso.gov.vn

 

ThS. Nguyễn Ngọc Tú Vân (*)

Khoa Tài chính – Ngân hàng